Từ “ái”, đầy đủ là “ái nam” hay “ái nam ái nữ”, có thể được xem là một trong những từ cổ xưa nhất dùng để ám chỉ cộng đồng LGBT ở Việt Nam.

Tuy chưa có giải nghĩa một cách chính xác, chúng ta có thể tạm hiểu theo hai cách. Theo cách thứ nhất, “ái” ở đây được hiểu là “yêu”, nghĩa là yêu cả nam và nữ.

Một cách hiểu được nhiều người đồng tình hơn, là nửa nam nửa nữ, từ cụm “á nam á nữ”. Ngay trong quyển “Việt Nam Tân từ điển” xuất bản năm 1951, tác giả định nghĩa “ái-nam” như sau: “người nửa trai, nửa gái, thường gọi là lại-cái (Hermaphrodite)”. Khi đó, từ “ái nam ái nữ” được sử dụng để chỉ những người mang những đặc điểm về giới tính sinh học không thuộc những tính trạng tiêu biểu của cả nam giới lẫn nữ giới (“có bộ phận sinh dục ngoài không ra nam cũng không ra nữ (tục gọi là lại cái)”, nay khoa học gọi là người liên giới tính (intersex). Cụ thể hơn, trong lịch sử, từ “ái nam ái nữ” vẫn thường được sử dụng cho các thái giám, bất kể do thiến hoạn hay bẩm sinh.

Sau này, trong “Từ điển tiếng Việt” xuất bản năm 2005, từ “ái nam ái nữ” còn được định nghĩa là “(Người đàn ông) có tính tình, cách ứng cử, lối sinh hoạt hơi giống với tính tình, cách ứng xử, lối sinh hoạt của nữ giới.” Do thiếu kiến thức về giới và tính dục mà nhiều người đã sử dụng cụm từ này để chỉ thể hiện giới (nam hành xử nữ tính, nữ hành xử nam tính), hay thậm chí là xu hướng tính dục của một người khác.

Nguồn:

Việt Nam Tân từ điển, 1951, 

Từ điển tiếng Việt, 2005

Leave a Reply